Những phương pháp nghiên cứu lịch sử
tác giả:Nguyễn Lệ Nhung
Nguồn:http://hkhls.dongthap.gov.vn
Như chúng ta đã biết, những phương pháp để nghiên cứu lịch sử là:
1.Những phương pháp chung cho tất cả các khoa học xã hội thích ứng với đặc thù và nhiệm vụ của khoa học lịch sử;
- Những phương pháp riêng của nhận thức lịch sử;
- Những phương pháp lấy từ các khoa học khác, các khoa học phụ cận và đã trở thành phương pháp chung của các khoa học, chung của các ngành của một khoa học.
- Những phương pháp chung cho tất cả các khoa học xã hội thích ứng với đặc thù và nhiệm vụ của khoa học lịch sử
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích là hai phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu lịch sử nói chung và nghiên cứu lịch sử đảng nói riêng. Kết quả và chất lượng mỗi công trình nghiên cứu lịch sử phụ thuộc rất nhiều vào việc kết hợp chặt chẽ và vận dụng nhuần nhuyễn hai phương pháp này.
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích là sự vận dụng các phạm trù lịch sử và lôgích vào công tác nghiên cứu, coi đó là phương tiện để đạt mục đích nghiên cứu và đây là những phương pháp quan trọng của ngành sử học. Trước khi đi sâu vào việc vận dụng kết hợp hai phương pháp trên, chúng ta cần nắm được đặc trưng và tính độc lập tương đối của từng phương pháp.
1.1.Phương pháp lịch sử
Phương pháp lịch sử là phương pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng lịch sử theo một trình tự liên tục và nhiều mặt, có lớp lang sau trước, trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Yêu cầu đối với phương pháp lịch sử là đảm bảo tính liên tục về thời gian của các sự kiện; làm rõ điều kiện và đặc điểm phát sinh, phát triển và biểu hiện của chúng, làm sáng tỏ các mối liên hệ đa dạng của chúng với các sự vật xung quanh.
Khi nghiên cứu bất cứ một hiện tượng xã hội nào như chế độ chính trị, chiến tranh, nghệ thuật lãnh đạo chỉ đạo cách mạng, phương pháp lịch sử xem xét rất kỹ các điều kiện xuất hiện và hình thành ra chúng, làm rõ quá trình ra đời, phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến hoàn thiện của các hiện tượng xã hội này. Đồng thời đặt quá trình phát triển của hiện tượng trong mối quan hệ nhiều hiện tượng tác động qua lại, thúc đẩy hoặc hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá trình vận động của chúng. Bằng phương pháp lịch sử, có thể cho phép chúng ta dựng lại bức tranh khoa học của các hiện tượng, các sự kiện lịch sử đã xảy ra. Vì thế, có thể nói rằng phương pháp lịch sử đã trở thành một mặt không thể tách rời của phương pháp biện chứng duy vật.
Đặc trưng của phương pháp lịch sử là:
1/ Tuân thủ nguyên tắc niên biểu, nghĩa là trình bày quá trình hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng trình tự vốn có của nó. Phương pháp lịch sử trình bày một sự vật, hiện tượng có đầu đuôi, có thời gian xuất hiện, hình thành và các bước vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng đó. Chỉ trên cơ sở tuân thủ theo nguyên tắc niên biểu mới thấy được tính liên tục trong vận động, phát triển của một hiện tượng cần nghiên cứu, và từ đó mới có thể rút ra được tính chất, đặc điểm, xu hướng và quy luật vận động của chúng.
2/ Làm rõ sự phong phú, muôn hình muôn vẻ của sự vận động, phát triển của lịch sử nghiên cứu lịch sử phải tỉ mỉ, công phu, phải xem xét các mặt biểu hiện của nó, không được đơn giản, càng không được cắt xén làm cho lịch sử trở nên đơn điệu, tẻ nhạt. Đúng như Lênin đã viết: Lịch sử bao giờ cũng phong phú về nội dung, cũng đa dạng về nhiều mặt, cũng sinh động hơn điều mà chúng ta hình dung được . Thí dụ như: Quy luật phổ biến của cách mạng Việt Nam là toàn dân vũ trang, cả nước đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Những biểu hiện của quyluật này trong thực tiễn lịch sử của hai cuộc kháng chiến lại rất phong phú đa dạng và hết sức sinh động, không giống nhau cả về hình thức và nội dung. Tính rộng khắp và sâu sắc của toàn dân đánh giặc trong kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) đã có bước phát triển mới, cao hơn với hình thức phong phú, sáng tạo hơn thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nếu không đầu tư công sức nghiên cứu tài liệu thực tiễn sẽ không làm sáng tỏ được bước phát triển mới của quy luật này.
Tuy vậy, khi chúng ta trình bày các sự vật, hiện tượng lịch sử phải tránh sa vào liệt kê hiện tượng, sự kiện, dồn đống tư liệu mà không chú ý đến sự vận động lôgích của các sự kiện, hiện tượng để chỉ ra xu hướng vận động có tính quy luật của chúng. Cho nên, phản ánh sự phong phú, đa dạng của nội dung lịch sử không đồng nghĩa với tập hợp thật nhiều sự kiện vụn vặt, lắp ghép theo trình tự thời gian. Làm như vậy, không bao giờ có thể tạo ra được một bức tranh khoa học, phản ánh đúng lịch sử và quy luật vận động của nó.
3/ Một đặc trưng nữa là phải bám sát và phản ánh đúng các bước phát triển quanh co, thậm chí thụt lùi tạm thời của lịch sử, bởi lẽ trong sự phát triển phong phú, muôn màu, muôn vẻ của xã hội loài người, không phải lịch sử tiến lên theo con đường bằng phẳng, mà các bước phát triển của lịch sử diễn ra có lúc nhanh, lúc chậm, lúc thuận, lúc nghịch, có khi quanh co hoặc thụt lùi. Tái hiện lịch sử phải trung thực, phản ánh đúng tiến trình vận động của nó, không được tùy tiện lược bỏ những khuyết điểm, hạn chế và những bước thụt lùi. Chỉ có được như vậy, việc nghiên cứu lịch sử mới thực sự rút ra được những bài học bổ ích.
Phương pháp lịch sử giúp chúng ta có thể đi sâu tái dựng được cả không khí lịch sử, cả tâm lý và tình cảm của con người trong những sự vật, hiện tượng tiêu biểu. Như chúng ta đã biết, lịch sử diễn biến, phát triển thông qua các sự vật, hiện tượng lịch sử. Phương pháp lịch sử không phải chỉ là trình bày nhiều sự vật, hiện tượng mà phải biết lựa chọn, trình bày các sự vật, hiện tượng tiêu biểu, điển hình. Những sự vật, hiện tượng đó là những biểu hiện tập trung nhất phản ánh quy luật vận động của lịch sử. Thí dụ, trong vô vàn cuộc nổi dậy của nhân dân miền Nam thời kỳ 1958-1960 thì khởi nghĩa Trà Bồng (8/1959, đồng khởi Bến Tre 1/1960, Tua Hai-Tây Ninh 1/1960, là những sự kiện tiêu biểu, điển hình hơn cả của phong trào cách mạng giai đoạn đó. Khi nghiên cứu các sự kiện quan trọng này, không những phải làm sáng tỏ điều kiện hình thành và diễn biến của sự kiện mà còn phải đi sâu tìm hiểu để làm rõ sắc thái riêng của từng sự kiện, mô tả được tâm lý, tình cảm của quần chúng nhân dân và cả không khí sôi động, hào hùng của cuộc đấu tranh cách mạng lúc bấy giờ. Một thí dụ nữa, trong cuộc đồng khởi Bến Tre, việc dựng lại không khí đấu tranh hừng hực vùng lên của quần chúng nhân dân, là rất cần thiết, làm cho lịch sử sống lại, mang sức truyền cảm lớn lao. Xây dựng lại sự kiện sơ sài, giản đơn, thiếu con người và tình cảm của họ sẽ sa vào những phản ánh chung chung, làm giảm đi tính sinh động của bản thân lịch sử.
4/ Vận dụng phương pháp lịch sử trong nghiên cứu cần chú ý nêu rõ địa điểm, thời gian xẩy ra sự vật, hiện tượng, con người đã tham gia vào sự kiện, hiện tượng đó, bởi vì các yếu tố này là những dấu ấn quan trọng của lịch sử. Nó đảm bảo tính khách quan và xác thực trong tái hiện lịch sử, nhất là khi trình bày các sự kiện tiêu biểu của các cuộc đồng khởi nêu trên, các hoạt động đánh dấu bước ngoặt của lịch sử hoặc cuộc tổng tiến công chiến lược làm chuyển biến cục diện cách mạng chẳng hạn. Đối tượng nghiên cứu của lịch sử rất phong phú đòi hỏi giới sử học phải nắm chắc phương pháp lịch sử để khai thác nó một cách triệt để và sâu sắc. Dĩ nhiên, phương pháp lịch sử, như trên đã trình bày, không chỉ là đơn thuần trình bày tiến trình phát triển của lịch sử bằng cách sưu tầm và liệt kê nhiều sự kiện, hiện tượng. Quan trọng hơn là phải đầu tư tìm hiểu, vạch ra được cái lôgích phát triển của các sự kiện, có nghĩa là tìm quy luật phát triển của lịch sử.
Phương pháp lịch sử có ưu thế trong việc nghiên cứu lịch sử nhưng chỉ riêng phương pháp lịch sử thì chưa thể tạo nên một công trình nghiên cứu lịch sử có tính lý luận và khoa học. Bởi vậy, cần vận dụng có hiệu quả phương pháp lôgích và các phương pháp khác trong nghiên cứu lịch sử.
1.2. Phương pháp lôgích
Phương pháp lôgích là phương pháp xem xét, nghiên cứu các sự kiện lịch sử dưới dạng tổng quát, nhằm vạch ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận động của lịch sử. Khác với phương pháp lịch sử, phương pháp lôgích không đi vào toàn bộ diễn biến, những bước quanh co, thụt lùi của lịch sử; nó bỏ qua những cái ngẫu nhiên có thể xảy ra trong lịch sử mà nắm lấy bước phát triển tất yếu, nắm lấy cái cốt lõi của sự phát triển, nghĩa là nắm lấy quy luật lịch sử. Như vậy, phương pháp lôgích cũng phản ánh quá trình lịch sử nhưng phản ánh dưới hình thức trìu tượng và khái quát bằng lý luận. Có nghĩa là, phương pháp lôgích trình bày các sự kiện một cách khái quát trong mối quan hệ đúng quy luật, loại bỏ các chi tiết không cơ bản. Đó là hình thức đặc biệt phản ánh quá trình lịch sử.
Phương pháp lôgích theo Ăngghen, không phải là cái gì khác là phương pháp lịch sử, chỉ có điều là nó thoát khỏi những hình thức lịch sử và những ngẫu nhiên pha trộn. Lịch sử bắt đầu từ đâu, quá trình tư duy cũng phải bắt đầu từ đó. Và sự vận động tiếp tục thêm nữa của nó chẳng qua chỉ là sự phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thức trìu tượng và nhất quán về mặt lý luận. Nó là phản ánh đã được uốn nắn lại, nhưng uốn nắn theo những quy luật mà bản thân quá trình lịch sử thực tế đã cung cấp, hơn nữa mỗi một nhân tố đều có thể xem xét ở cái điểm phát triển mà ở đó quá trình đạt tới chỗ hoàn toàn chín muồi, đạt tới cái hình thái cổ điển của nó .
Phương pháp lôgích sử dụng các luận điểm khoa học trong tư duy nhằm lý giải, khái quát, đánh giá và rút ra những kết luận từ các sự kiện lịch sử. Vận dụng phương pháp lôgích trong nghiên cứu lịch sử cần tuân thủ những yêu cầu sau:
1/ Tránh máy móc và định kiến
Cần chú ý trong nghiên cứu lịch sử, khi sử dụng các luận điểm khoa học phải coi đó chỉlà các phương tiện, công cụ của tư duy lôgích, chứ không phải cái có sẵn để định hình hco lịch sử theo ý muốn chủ quan của người nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu phải dùng các luận điểm đểphát hiện ra lôgích phát triển của lịch sử chứ không được đưa ra một cái khung lôgích phát triển rồi gán cho lịch sử. Trong các quy luật vận động của lịch sử có quy luật phổ biến và quy luật đặc thù (riêng). Chung ta nắm chắc quy luật phổ biến để xem xét các sự kiện, hiện tượng lịch sử, nhưng lại phải đi sâu vào các sự kiện, hiện tượng lịch sử nhằm tìm ra quy luật đặc thù của chúng. Thí dụ: Nói đến chiến tranh nhân dân thì quy luật phổ biến của nó là đấu tranh toàn diện và đông đảo quân fhcúng tham gia. Nhưng chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng vận động và phát triển trong điều kiện lịch sử của đất nước và con ngươì Việt Nam nên nó có những biểu hiện riêng, phát triển với những nét đặc thù riêng không giống như chiến tranh nhân dân ở các quốc gia, dân tộc khác.
Nếu nghiên cứu lịch sử mà không làm rõ được những nét riêng đó thì khái quát lôgích chỉ dừng lại ở những biểu hiện của quy luật chung, không rút ra được điều gì bổ ích của chiến tranh nhân dân vô cùng phong phú, sáng tạo của dân tộc ta. Xét cho cùng thì làm rõ được tính phổ biến, cũng như tính đặc thù của lịch sử, có nghĩa là các nhà nghiên cứu đã khái quát đúng đắn được quy luật của lịch sử cụ thể, tránh được sự chủ quan và định kiến trong nghiên cứu.
2/ Trên cơ sở những diễn biến của lịch sử thì khái quát lôgích mới có căn cứ. Tách rời diễn biến lịch sử, chỉ dùng khái quát lôgích thay thế cho phương pháp lịch sử thì thường dẫn đến những suy luận trìu tượng, nhận xét chung chung, thậm chí kết luận sai lệch nữa. Do vậy, người nghiên cứu cần chú ý tránh sự hời hợt trong nghiên cứu, phân tích các sự kiện, hiện tượng lịch sử rồi vội vã rút ra các kết luận nông cạn, thậm chí sai lệch, đồng thời cũng cần phải tránh sự khái quát thiếu hẳn các sự kiện, hiện tượng lịch sử làm cơ sở cho những điểm kết luận.
Như vậy, có nghĩa là phương pháp lôgích là sự phân tích khoa học biện chứng của sự phát triển thực tế của sự vật, hiện tượng chứ không phải rút một khái niệm này từ một khái niệm khác một cách tư biện . Sự phù hợp giữa lôgích và lịch sử là một nguyên tắc phương pháp luận của lôgích biện chứng mácxít. Bởi lẽ muốn hiểu được bản chất, quy luật của sự vật thì phải hiểu sự phát sinh, phát triển của nó. Ngược lại, chỉ có nắm được bản chất và quy luật của sự vật, hiện tượng thì mới nhận thức được lịch sử của nó một cách đúng đắn.
Dựng lại cái lôgích khách quan của sự phát triển của sự vật, hiện tượng là nhiệm vụ của phương pháp lôgích. Muốn vậy, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải bắt đầu từ hình thức phát triển tương đối hoàn thiện và chín muồi nhất của nó chứ không thể tùy tiện. Nếu lịch sử chính là bản thân cuộc sống thì lôgích là bản chất của cuộc sống do nghiên cứu lý luận chỉ ra.
Không có sự khác nhau về nguyên tắc giữa lịch sử và lôgích. Vấn đề là ở chỗ sự kết hợp giữa chúng một cách nhuần nhuyễn trong nghiên cứu sao cho đối tượng được dựng nên với một diện mạo lịch sử trung thực, đúng như bản thân nó vốn có và trong đó nổi bật lôgích về sự vận động, sinh thành, phát triển của nó. Giải thích tính thống nhất giữa hai phương pháp, khi bàn về phương pháp lôgích, Ph. Ăngghen đã viết: Về bản chất, phương pháp lôgích không phải là cái gì khác mà chính là phương pháp lịch sử đã được giải thoát khỏi hình thức lịch sử, không bị phụ thuộc vào cái hoàn cảnh ngẫu nhiên, pha trộn và phương pháp lôgích hoàn toàn không nhất định đóng khung trong phạm vi trìu tượng thuần túy. Trái lại, nó đòi hỏi phải có sự minh họa lịch sử. Như vậy, có thể hiểu rằng, phương pháp lịch sử đã chứa đựng tính lôgích của sự phát triển lịch sử; còn phương pháp lôgích đã bao hàm phương pháp lịch sử. Hai phương pháp này kết hợp chặt chẽ với nhau, và trong bản thân phương pháp này đã có sự thâm nhập của phương pháp kia, không thể vận dụng từng phương pháp tách rời nhau.
Tóm lại, xem xét từng phương pháp, ta thấy được các yêu cầu và tính độc lập tương đối của mỗi phương pháp nhưng cả hai phương pháp lịch sử và lôgích đều thống nhất ở mục tiêu là làm sáng tỏ quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử. Trong nghiên cứu, biên soạn lịch sử phải vận dụng được tính thống nhất trong sự khác biệt của chúng. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa phương pháp lịch sử và phương pháp lôgích trong nghiên cứu, biên soạn lịch sử có một ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng. Nó tránh cho ta mắc phải cách xem xét một chiều khi nghiên cứu lịch sử, ngăn ngừa chủ quan, máy móc. Nó cũng giúp ta tránh tình trạng ôm đồm, chỉ liệt kê tài liệu và ngăn ngừa cả kiểu lý luận suông không cần thiết.
- Những phương pháp riêng của nhận thức lịch sử
2.1. Phương pháp phân tích so sánh
Phương pháp này là sự hỗ trợ cần thiết làm nổi bật tính thống nhất giữa lịch sử và lôgích. Đó là sự so sánh giữa đối tượng này với đối tượng khác trong những điều kiện, hoàn cảnh xác định chi phối chúng, cho phép nhìn rõ nét tương đồng và sự khác biệt, nhận rõ những cái riêng có cùng một cái chung bản chất hoặc những dấu hiệu phân biệt cái riêng này với cái riêng khác.
Phương pháp phân tích so sánh cũng có thể dựa trên những cái mốc của sự kiện và thời gian của cùng một cái trục vận động lịch sử để tìm ra sự phát triển khác nhau của cùng một đối tượng, chỉnh thể trong những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau.
2.2. Phương pháp lịch đại
Trong số các phương pháp riêng để nhận thức lịch sử có phương pháp lịch đại. Phương pháp này cho phép nghiên cứu quá khứ lần theocác giai đoạn phát triển trước kia của nó. Dựa vào quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự thống nhất giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, dựa vào quan niệm biện chứng cho rằng trong một quá trình phát triển mỗi giai đoạn tiếp sau đều mang trong mình nó những đặc điểm và những yếu tố của giai đoạn trước. Quan niệm rằng, đối với mỗi hiện tượng cũng như đối với mỗi hệ thống đều chứa đựng những yếu tố của các giai đoạn trước và các giai đoạn tiếp sau, đã mở ra con đường, nhằm vạch ra khuynh hướng phát triển, cũng như hiểu rõ được những việc đã qua của nó. Một trong những cách hiểu quá khứ là dựa vào những mối liên hệ nhân quả giữa các hiện tượng. Giới sử học có khả năng đánh giá hiện tượng quá khứ theo các kết quả và hậu quả mà nguyên nhân của chúng là hiện tượng đó, có nghĩa là nghiên cứu nó, theo cách nói của Lênin, trong mối liên hệ với những kinh nghiệm lịch sử cụ thể . Tuy nhiên, tác dụng của phương pháp lịch đại bị hạn chế khi nghiên cứu các hiện tượng xảy ra gần với ta và có ưu thế khi nghiên cứu các hiện tượng xa xôi.
2.3. Phương pháp đồng đại
Phương pháp riêng để nhận thức lịch sử thứ hai là phương pháp đồng đại. Phương pháp này mở ra khả năng nhận thức rộng lớn. Thực chất của nó là xác định các hiện tượng, quá trình khác nhau xảy ra cùng một thời điểm (có liên quan đến nhau). Phương pháp này giúp chúng ta bao quát được toàn vẹn và đầy đủ quá trình lịch sử ; so sánh được cái gì đã xảy ra trong cùng một thời gian, ở các nước khác nhau, ở các vùng khác nhau trong một nước, ở các tổ chức đảng khác nhau, cũng như so sánh các quá trình có tính chất khác nhau xảy ra trên cùng một lãnh thổ (thí dụ như phong trào công nhân, phong trào nông dân, phong trào trí thức, phong trào trong quân đội, v.v). Thực hiện phương pháp đồng đại này, thường thường chúng ta dùng các bảng đối chiếu niên đại.
Sự kết hợp lịch đại và đồng đại trong nghiên cứu sự phát triển của một đối tượng, của những đối tượng khác trở nên cần thiết một cách khách quan. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với nghiên cứu quá trình hình thành tư tưởng, chuyển đổi thế giới quan của một nhân vật lịch sử, hoặc những cống hiến khác nhau của những nhân vật lịch sử khác nhau trong cùng một thời đại cũng như trong những thời đại lịch sử khác nhau.
2.4. Phương pháp phân kỳ
Phương pháp này cho phép giới sử học nghiên cứu sâu sắc các quá trình lịch sử, làm sáng tỏ nội dung và đặc điểm của các giai đoạn phát triển của chúng, ghi lại các thời kỳ biến đổi về chất của chúng, mà tính chất của sự biến đổi đó thể hiện trong các khuynh hướng và các quy luậtls chủ yếu của chúng. Cho nên, phương pháp phân kỳ phải được coi làmột trong các phương pháp chủ yếu, riêng biệt của việc nhận thức lịch sử.Không được lẫn lộn phương pháp này với phương pháp nhận thức lịch sử có tính chất khoa học phổ cập, là phương pháp nghiên cứu quá trình phát triển theo thời gian. Vấn đề là ở chỗ, phương pháp phân kỳ là phương pháp riêng của khoa học lịch sử, là phương tiện nghiên cứu sâu sắc các sự kiện lịch sử, và là phương pháp vạch rõ được nội dung khách quan của chúgn, nhưng không phải chỉ theo thời gian của các sự kiện, hiện tượng, mà còn căn cứ vào cả cái điển hình của các sự kiện, khi áp dụng phương pháp lịch sử trong các khoa học khác.
- Những phương pháp lấy từ các khoa học khác, các khoa học phụ cận và đã trở thành phương pháp chung của các khoa học, chung của các ngành của một khoa học
Khoa học lịch sử nói chung, khoa học lịch sử đảng nói riêng, sử dụng các phương pháp có tính chất chung của các môn khoa học phụ cận. Việc vay mượn các phương pháp (và để có thể vay mượn được là vì có sự đồng nhất về cơ sở triết học phương pháp luận của các môn khoa học) là một hiện tượng phổ biến và rất có kết quả trong trong trình độ phát triển của khoa học hiện nay. Mặt khác, không phải chỉ có khoa học lịch sử sử dụng những phương pháp của khoa học khác, mà những khoa học khác cũng sử dụng những phương pháp đặc thù của khoa học lịch sử khi nó phải giải quyết những nhiệm vụ về nhận thức lịch sử.
3.1. Phương pháp thống kê
Trong các phương pháp của các môn phụ cận, trước hết ta phải chú ý nhiều đến phương pháp thống kê. Phương pháp này cho phép thông qua tất cả các bản thống kê về số lượng, (được nghiên cứu nhờ sự giúp đỡ của các thủ thuật và các hệ phương pháp riêng) vạch ra tính quy định thuộc về tính chất của các hiện tượng và quá trình lịch sử. Không phải ai khác, mà chính Lênin đã chỉ ra là có thể áp dụng rộng rãi phương pháp này, một phương pháp ra đời trong ngành thống kê kinh tế để nghiên cứu các hiện tượng xã hội.
3.2. Phương pháp nghiên cứu xã hội cụ thể
Cùng với phương pháp thống kê, ta phải kể đến phương pháp nghiên cứu xã hội cụ thể. Phương pháp này buộc nhà sử học phải theo dõi trực tiếp các hiện tượng và quá trình của đời sống xã hội nhờ các phương pháp riêng. Phương pháp này được sử dụng trước hết trong xã hội học, theo bản chất của nó, hoàn toàn có thể áp dụng vào việc nghiên cứu lịch sử, bởi lẽ nó cho phép nghiên cứu sự tác động của các quy luật chung trong hình thức lịch sử cụ thể mà chúng xuất hiện. Trong công tác nghiên cứu lịch sử đảng, phương pháp này không phải chỉ là phương tiện có hiệu lực làm cho việc nghiên cứu trở nên hợp thời, mà nó còn cho phép bổ sung về cơ bản những chỗ thiếu hổng trong tư liệu, đặc biệt khi viết về hoạt động của Đảng trong điều kiện hiện nay.
Thay lời kết luận
Tuy nhiên, trong nghiên cứu lịch sử đảng, một số phương pháp được coi trọng, còn một số đóng vai trò thứ yếu, hoặc chỉ có một vài khía cạnh nào đó của phương pháp nghiên cứu riêng biệt là có ý nghĩa. Nhà sử học có thể chọn cho mình những phương pháp thích hợp trong nghiên cứu nhưng dù phương pháp nào thì việc ứng dụng nó cũng phải được hỗ trợ bởi các nguồn sử liệu. Phương pháp nghiên cứu luôn tìm được chỗ dựa trong các nguồn này. Đến lượt mình, tính chất của các nguồn sử liệu lại làm sáng tỏ con đường và nhiệm vụ nghiên cứu. Việc lựa chọn sử liệu điển hình và xem xét quan hệ giữa các loại tài liệu với nhau và với sự kiện, hiện tượng lịch sử được nghiên cứu là điều tuyệt đối cần thiết để đảm bảo cho việc nghiên cứu không bị sa vào những chi tiết không cần thiết nhưng cũng không quên đi những khía cạnh sâu sắc, có tính bản chất của vấn đề. Nói cách khác, điều này sẽ giúp cho nhận thức lịch sử có được khả năng trở nên toàn diện và chính xác.
Tài liệu tham khảo
- Bàn về mấy vấn đề phương pháp luận của khoa học lịch sử đảng. In trong T/c Những vấn đề lịch sử Đảng Cộng sản Liên xô, số 7/1976. (Bản dịch của UBKHXHVN)
- Những vấn đề phương pháp luận của khoa học lịch sử đảng. In trong T/c Những vấn đề lịch sử Đảng Cộng sản Liên xô, số 4/1976. (Bản dịch của UBKHXHVN)
- Văn Tạo Phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Viện Sử học Việt Nam xuất bản, 1995.
- Hà Văn Tấn: Mấy suy nghĩ về phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, 1967, số 96.
- Về phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử quân sự. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. H., 1999.
Chia sẻ:
Có liên quan
- PHƯƠNG PHÁP LỊCH SỬ VÀ PHƯƠNG PHÁP LOGIC
- 08/11/2015
- Trong "Phương pháp nghiên cứu khoa học"
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- 18/12/2016
- Trong "Phương pháp nghiên cứu khoa học"
- Về phương pháp luận nghiên cứu văn hoá và con người
- 16/10/2016
- Trong "Văn hóa Nghệ thuật"