Thủ Thuật Hướng dẫn Căn bản vô minh là gì Mới Nhất
Bạn đang tìm kiếm từ khóa Căn bản vô minh là gì được Cập Nhật vào lúc : 2022-03-06 10:10:04 . Với phương châm chia sẻ Mẹo Hướng dẫn trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết 2022. Nếu sau khi đọc tài liệu vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại phản hồi ở cuối bài để Tác giả lý giải và hướng dẫn lại nha.
Skip to content
Nội dung chính
- Mục lục nội dung bài viết
- 1. Vô minh là gì ?
- 2. Nghiệp do mình tạo
- 3. Nghiệp do mình tạo, nhưng”mình”ấy là ai?
- 3.1 Sao gọi là chân lý thế tình ?
- 3.2Sao gọi là yếu tố thật đệ nhất nghĩa ?
- 1. Vô minh là gì ?
- 2. Nghiệp do mình tạo
- 3. Nghiệp do mình tạo, nhưng”mình”ấy là ai?
- 3.1 Sao gọi là chân lý thế tình ?
- 3.2Sao gọi là yếu tố thật đệ nhất nghĩa ?
- Không sáng suốt.
- Không thấy rõ thực tướng của pháp, của vạn hữu.
- Sự thấy lầm, sự mê lầm.
- Không thấy rõ Tứ Diệu Đế.
- Vận mệnh(khổ lạc, vui buồn, xấu tốt, trí ngu)của từng người là vì người ấy tạo ra, là tác nhân chính. Các yếu tố, Đk ngoại cảnh chỉ là lực tương tác, phụ tùy gọi là duyên.
- Ta đó đó là Thượng Đế của ta vậy(Attāhi attano nātho – Nātho có 2 nghĩa: Nương tựa hoặc Thượng Đế).
- Mọi sự chênh lệch, sự không tương đương, bất bình đẳng trong đời sống đều phát xuất từ nguyên nhân chính yếu là nghiệp của từng người.
- Ta hoàn toàn có thể thấy, biết, khắc chế và thay đổi vận mệnh của tớ bằng phương pháp nắm vững quy luật nghiệp báo để thay đổi nghiệp.
- Đạo đức của từng người tùy thuộc vào mức độ giác ngộ và tùy thuộc vào việc làm chủ quy luật nghiệp báo ấy.
- Quy luật xã hội tương tùy vào 4 định luật tự nhiên của vũ trụ, đồng thời phát xuất từ những tương quan Một trong những nghiệp của thành viên(định luật 5).Vì vậy, cải tổ xã hội không gì hơn là cải tổ gốc nghiệp nơi từng người.
- Đi sâu thêm một tí nữa. Cái bàn là phối hợp của đinh, gỗ, ván… nhưng đinh, gỗ, ván… ấy cũng không phải thực ngã, thực tính… Vì đưa hai con mắt khoa học nhìn ngắm cái đinh, những nhà khoa học không tìm thấy cái gì được gọi là”đinh”cả! Nó là sắt ư? Không phải thế, nó chỉ là yếu tố phối hợp của những hạt vật chất rất nhỏ nhiệm. Nếu phân tích nữa thì vật chất ấy cũng không còn, toàn bộ chỉ là nguồn tích điện tụ rồi tan rất nhanh bằng thời hạn của một phần triệu giây! Những loại vật chất khác cũng tương tợ thế.
- Nghiệp không do“cái ta”nào tạo ra cả.
Bộ từ điển: Chú Thích Phật Học – Pháp Thí Hội
● Phạn Ngữ Avidyà. Là cách gọi khác của phiền não. Ý là tri kiến (nhận thức) không đúng như thực, tức mê muội sự vật, cái trạng thái tinh thần không thông đạt chơn lý với không hay sáng tỏ lý giải sự tướng hoặc đạo lý. Cũng tức không thấu, không hiểu, không rõ, mà lấy ngu si làm tự tướng của tớ. Phiếm chỉ cho vô trí, ngu muội, đặc biệt quan trọng chỉ cho nhận thức trần gian không hiểu đạo lý của Phật dạy. Vô Minh là một trong mười hai nhân duyên. Đến vị thế Phật mới hết vô minh, sanh giác ngộ. Vô minh theo Phật Giáo là chẳng rõ biết xấu hổ; ngoài ra cũng còn nghĩa khác là nguyên nhân của toàn thế giới bị vây bủa bởi khổ đau. Có 2: cơ bản vô minh và chi mạt vô minh. Tạp A-hàm, kinh 750, Vô Minh: “Tỳ-kheo, những pháp ác bất thiện sanh khởi, toàn bộ đều do vô minh làm gốc, vô minh tập, vô minh sanh, vô minh khởi. Vì sao? Vì vô minh là vô tri, không biết như thực riêng với pháp thiện, pháp bất thiện; không biết như thực có tội, vô tội, pháp thấp, pháp cao, nhiễm ô, không nhiễm ô, phân biệt, không phân biệt, duyên khởi, không duyên khởi. Vì không biết như thực nên khởi lên tà kiến; khi đã khởi tà kiến rồi, thì hoàn toàn có thể khởi lên tà chí, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà phương tiện đi lại, tà niệm, tà định”. (Thích Đức Thắng dịch)
● Là quên, không biết CHƠN-TÂM của tớ. Trong kinh Lăng-Nghiêm Phật dạy : “Tri Kiến Lập Tri tức vô minh bổn”. Nghĩa là: Từ “tánh biết” không còn chủ-thể và đối-tượng mà lập ra cái “biết” có chủ-thể và đối-tượng, rồi 6 căn vướng mắc vào 6 trần sanh ra chê khen thương ghét, đó đó đó là gốc của “vô minh”. Do vô minh nên thấy có đối-đãi, phân biệt. Do vô minh nên vạn vật vô thường mà ta cho là thường, vô ngã mà ta cho là có ngã; dục lạc ở trần gian là khổ mà ta cho là vui. Do vô minh nên quên hết những kiếp trước, không biết nhân quả luân hồi. Tiếng Pali ‘avijja-paccaya samkhara’ nghĩa là ‘vô-minh duyên-sanh ra hành’.
Pháp Thí Hội không phải là shop bán những văn hóa truyền thống phẩm Phật Giáo. Hội chỉ là nơi nhận Tịnh Tài của những Phật Tử gửi về, mua kinh sách (theo form Đk trên web của những Phật Tử ) và thay những Phật Tử đó đi cúng dường những chùa ở vùng xa , những nơi thiếu kinh sách cho những Phật tử nơi đó tu học.
Nếu quý Phật Tử muốn thỉnh kinh sách xin vui lòng không Đk tại đây. Bỏ qua
Mục lục nội dung bài viết
Hành(saṅkhāra)đó đó là 50 tâm sở chi phối toàn bộ tâm sinh vật lý của con người ở trong 3 cõi, trong số đó, tư tâm sở quan trọng nhất vì chính nó tạo nghiệp. Nói cách khác, những nghiệp thiện, ác, bất động được biểu lộ qua ái, thủ, hữu đều do vô minh mà có. Vậy nguồn gốc của nghiệp đó đó là vô minh.
1. Vô minh là gì ?
Vô minh có những định nghĩa sau:
Từ định nghĩa gốc như vậy, từ tình hình của vô minh như vậy, nó chi phối tâm và trí của chúng sanh: Làm cho tâm thì tham, sân, phiền não chướng; làm cho trí thì tà kiến, kiến chấp, kiến thủ, chấp ngã và sở tri chướng.
Trong lộ trình thiền định, hành giả hoàn toàn có thể làm lắng dịu những thuộc tính của vô minh, ấy là 5 triền cái(hôn trầm-thụy miên, nghi, sân, phóng tâm, dục)để đi vào những tầng thiền.
Trong lộ trình thiền tuệ,nhờ quán tam tướng vô thường, khổ, vô ngã, hành giả lần lượt cắt đứt 10 sợi giây sai sử, trói buộc(kiết sử – thân kiến, không tin, giới cấm thủ, tình dục, bất bình, sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng tâm, vô minh)để chứng 4 thánh đạo, 4 thánh quả. Cho đến quả vị ở đầu cuối mới bứng nhổ hết vô minh, đồng thời chấm hết nghiệp.
Như vậy, nói cho khá đầy đủ, nguồn gốc của nghiệp đó đó là vô minh và ái dục.
2. Nghiệp do mình tạo
Khi đã thấy rõ nghiệp là gì, và nguồn gốc của nghiệp là vô minh và ái dục, ta thấy rõ rằng, do chính ta tự tạo ra, chính ta đã góp vốn đầu tư ý chí tự do của ta để tạo tác nên hành vi,biểu lộ qua thân, khẩu, và ý. Có hành vi tất có phản ứng của hành vi, có nhân có duyên tất có quả. Vậy thì những xấu, tốt, vui, khổ mà từng người nhận chịu đó đó là vì kết quả của người ấy làm trong quá khứ. Cũng vậy, mê muội hay sáng suốt, thanh tịnh hay nhiễm ô, cao thượng hay thấp hèn đều được quy định từ lý nghiệp báo, tự mình và do mình vậy.
Như Kinh Lời Vàng (165):
“- Làm điều ác, dữ do ta.
Làm điều ô nhiễm cũng là mình thôi. Tự tôi, thanh tịnh cho tôi.
Ai người thanh tịnh cho những người dân, có đâu!”
Hay (160):
“- Tự ta nương tựa cho ta.
Có ai nương tựa gần, xa mà cầu! Tự mình thuần tịnh làm đầu.
Là chỗ nương tựa thâm sâu khó bàn!”
Hoặc, Đức Phật dạy:
“- Chúng hữu tình thọ lãnh báo ứng tất yếu của nghiệp do chúng đã tạo tác; và chính vì định luật nhân quả nghiệp báo ấy mà có sự sự không tương đương sai khác giữa xã hội và chúng sanh”.
Một nhà văn phương Tây lại”than”:
“- Ôi! Trên trần gian này chẳng có gì minh triết và cao đẹp hơn lý nghiệp báo của Phật tổ Cù-đàm. Nó công bình hơn cán cân nghiêm minh của pháp lý. Nó đạo đức và sáng suốt hơn tất thảy tâm và trí của những bậc hiền triết. Cũng không còn, và chưa hề có một lý thuyết nào khả tín hơn. Tự nó hoàn toàn có thể tại vị một mình mà không cần nương tựa vào bất kỳ vị thần linh nào và bất kỳ uy lực, uy tín của hệ tư tưởng nào. Tự nó đủ chứng tỏ về toàn bộ những sự không tương đương thể xác, tri thức, kể cả những bất công xã hội, những sự thiên lệch ghê tởm của số phận con người!”
Từ những sự thực về nghiệp như vậy, ta hoàn toàn có thể đi đến những xác tín sau này:
3. Nghiệp do mình tạo, nhưng”mình”ấy là ai?
Người ta thường nói, ông A thao tác thiện, ông B thao tác ác; hoặc ông A được hưởng quả báu sung sướng, ông B chịu quả báođau khổ. Nói vậy là đúng, theo thực sự ước lệ của trần gian; nhưng còn cái đúng khác nữa, cái đúng theo đệ nhất nghĩa đế, vượt quy ước, phạm trù, người học Phật cũng phải thấu triệt.
3.1 Sao gọi là chân lý thế tình ?
Do chữ Pāḷi: Sammuti sacca. Sacca là yếu tố thật, chân lý, chân như, đế. Sammuti là thế tình, quy ước, ước lệ, phạm trù, quy định, mặc ước…
Đây là loại thực sự do con người nêu lên rồi trong thời điểm tạm thời đồng ý với nhau. Ấy là toàn bộ mọi danh từ, khái niệm có trong ngôn từ loài người nhằm mục đích gọi tên những sự vật rõ ràng hoặc cả những khái niệm trừu tượng. Cụ thể, như cái bàn, cái ghế, đàn ông, đàn bà, sông, núi, cỏ, cây. Trừu tượng như tự do, niềm sung sướng, tổ quốc…
Loại ngôn từ và khái niệm mặc ước này còn được gọi là thường ngữ; gọi là thường ngữ vì nói ra ai cũng nghe, cũng hiểu. Tạng Kinh, Luật Đức Phật thường sử dụng loại ngôn từ này.
3.2Sao gọi là yếu tố thật đệ nhất nghĩa ?
Do chữ Pāḷi: Paramattha sacca. Paramattha là rốt ráo, cao diệu, đệ nhất nghĩa, ly thoát những khái niệm phạm trù, quy định của trần gian do con người nêu lên.
Loại ngôn từ này được Đức Phật sử dụng trong tạng Abhidhamma để nói tới những lãnh vực vi tế, sâu nhiệm về tâm, tâm sở, sắc pháp và Niết-bàn. Đây là loại ngôn từ đặc biệt quan trọng, nói theo kinh văn, nó được gọi là pháp ngữ.
Giải thích về hai loại chân lý:
+ Khi ta gọi cái bàn, cái ghế, con người, cái nhà, sông, núi… là ta gọi tên chung một tổng hợp, một cấu hợp, một phối hợp từ những yếu tố rời rạc. Cái bàn là tổng hợp từ những yếu tố: ý niệm của người thợ, đinh, gỗ, ván, keo… Nếu rời những yếu tố kia ra, không còn cái gì trong số này được gọi là cái bàn cả. Do vậy, tên thường gọi cái bàn chỉ là giả danh, nó không thực hữu, thực tính.
+ Khi gọi con người, hữu tình, tự ngã cũng tương tự thế. Con người là một tổng hợp của thân và tâm. Thân là máu, huyết, tủy, xương, tóc, lông, móng, răng, da… Tâm là những yếu tố tâm ý thương, ghét, vui buồn, nhận thức… Nói cô đọng là con người chỉ là yếu tố phối hợp của ngũ uẩn hoặc danh và sắc. Rời ngũ uẩn hoặc danh sắc, ta chẳng tìm thấy gì ở trong số đó là con người cả. Do vậy, con người, hữu tình, tự ngã, đàn ông, đàn bà… chỉ là giả danh, nó không còn thực thể con người, thực ngã, thực tính con người.
Cái nhìn vô tự tính, không tính ấy xuyên thấu vạnhữu từ hạt vi trần đến hơn cả sơn hà đại địa, như Đức Phật dạy:”Tất thảy những pháp đều là vô ngã”.
Còn con người? Là chỉ tấm thân một trượng này cùng với cảm hứng và tri giác! Tấm thân một trượng thì ở đầu cuối chỉ là nguồn tích điện! Còn cảm hứng và tri giác tức thọ và tưởng… lại càng không thực ngã, lại càng vô tự tính. Nếu vật chất thay đổi sinh diệt 01 lần thì cảm thọ, tri giác thay đổi nhanh gấp 16 lần như vậy.
Như vậy, con người, ngũ uẩn, danh sắc… là phối hợp của những nguồn tích điện cùng những yếu tố tâm ý luôn luôn thay đổi, miên tục, trùng trùng. Nó rất khác nhau trong mọi khoảnh khắc, không còn gì tồn tại giống nhau trong 2 sát-na.
Ta hãy tìm hiểu thêm một đoạn văn sau này:
“- Tôi đang nhàn nhã thưởng lãm một cảnh trời chiều ngoạn mục. Mặt trời rực rỡ chiếu trực diện qua những đám mây lóng lánh sắc màu. Ôi! Cảnh vật xung quanh tôi mới kiều diễm và thơ mộng dường bao? Kìa! Sông nước, núi đồi, cây xanh dường như khóac lên mình chiếc áo thủy tinh, sáng hơn, tươi đẹp hơn, và muôn màu muôn sắc hơn!
Một cơn gió lạnh bất chợt thổi tới làm chao nghiêng một cành hoa thạch thảo. Có tiếng hát của gió và vài chiếc lá rung rinh khiêu vũ. Dường như trời sắp dông và sẽ có được mưa…
Tôi ngửng đầu lên. Sắc màu của mây, cây xanh, sông nước giờ đây sao chỉ từ một màu xám xịt, u ám. Nó đã thay đổi hoàn toàn”.
Cái cảnh mà tôi vừa nhìn thấy là ảo giác, là cảnh theo con mắt nhìn của tục đế, là của sammuti sacca. Nhưng nếu đưa mắt nhìn theo con mắt của chân đế, đệ nhất nghĩa, paramattha-sacca, thì ta không bao giờ trông thấy một màu nào cả! Các màu bao giờ cũng đang liên tục biến hóa và cũng đang liên tục trở thành màu khác. Trong mộtphần triệu giây đồng hồ đeo tay, nó thay đổi, biến dạng, màu này liên tục ẩn trong màu kia. Nó nhanh gọn cho tới độ ta không thực sự thấy nó là màu gì. Nó là một chuỗi dài sắc tố, trong số đó không còn màu nào là tồn tại, màu này liên tục tan biến trong màu khác.
Không có màu nào cả. Tất cả đang trở thành! Không có con người, đàn ông, đàn bà nào cả; toàn bộ đều là những yếu tố sắc danh luôn biến hóa và trở thành!
Thực sự là paramattha sacca thì không thể gọi tên cái gì được cả. Tuy nhiên, Đức Phật được cho phép dùng uẩn, xứ, giới… để diễn đạt, nói năng, phương tiện đi lại cho con người liễu ngộ thực sự rốt ráo khibàn về tâm, tâm sở, sắc pháp và Niết-bàn(trong Abhidhamma).
Lập ngôn này là dựa theo cái nhìn của đệ nhất nghĩa đế.
Thân là phối hợp của những yếu tố vật chất. Tâm là yếu tố trôi chảy của hằng chuỗi trạng thái tâm ý. Vậy khi ta khởi một niệm, muốn làm một việc nào đó, là tư tác(cetanā);niệm ấy thường không độc lập khởi sanh, nó kế tục của niệm đi trước rồi tạo khả năng cho niệm đi sau. Nếu niệm ấy kéo dãn 7 sát-na, có javana thì nó đã cấu thành nghiệp(ý nghiệp).Vậy thử hỏi có người nào, có ai tạo nghiệp ấy chăng ? Rõ ràng là chẳng có ai ở đấy cả, chỉ có niệm và niệm mà thôi. Chẳng có một tác giả nào!
Đến đây có người sẽ đặt vướng mắc: Không có ai tạo nghiệp thì thấy rõ rồi, còn người thọ nhận quả báo thì sao? Với thực sự đã nêu dẫn thì chắc cũng không luôn? Có rơi vào đoạn kiến chăng? Câu vấn đáp là: Không rơi vào đoạn kiến, mặc dầu”không còn ai tạo nghiệp và chẳng có ai thọ nhận quả báo”.Khi mà chỉ có tư tác(tạo nghiệp),không còn người-tư-tác; thì những cảm thọ, tri giác, tư tưởng cũng không còn người cảm thọ, người tri giác, người tư tưởng. Trong đời sống, khi ta nhận chịu quả báo, vui hay khổ, sẽ không còn còn người vui, người khổ mà chỉ có cảm thọ vui, cảm thọ khổ. Người tu thiền tuệ thường ghi nhận thực sự ấy để vén mở bản lai vô ngã của những pháp.
Nói tóm lại,”không còn tác giả, không còn thọ giả”là cái nhìn của paramattha sacca. Và cũng chính nhờ việc thật ấy, nhờ việc diễn tiến của tâm niệm, nhờ không còn thực ngã mà: người xấu ác trở nên tốt, tên tội đồ hoàn toàn có thể trở thành bậc thánh nhân nếu biết chuyển hóa, thay đổi tư tưởng, tâm niệm, ý chí của tớ. Nó rất công minh, công minh, gây nhân nào gặp quả nấy không sai trật.
+ Có người ăn trộm xoài, bị bắt, đưa lên quan. Nó nói: Tôi không lấy cắp xoài của y. Cái hạt xoài của y gieo thuở xưa, nó nhỏ xíu, đã tiêu mất rồi. Trái tôi lấy ăn, to, chín vàng, rõ ràng là khác xa mà! Dù người ăn trộm xoài có cãi cối, cãi chày anh ta vẫn bị quả báo xử phạt.
+ Có cậu thanh niên phạm tội giết người, bỏ trốn. 30 năm tiếp theo trở về bị công an nhận diện, còng tay, đưa ra tòa. Cậu thanh niên, giờ đây đã là ông già tóc bạc, nói rằng:”Thưa quý tòa, công an bắt nhầm người rồi, cậu thanh niên thuở xưa là trai tráng, tóc xanh, hắn có gây ra án thì phải bắt hắn chịu tội. Còn tôi, giờ đấy là một lão già, liệu có phải là cậu thanh niên ấy đâu. Oan cho tôi lắm!”.Cái ngụy biện ấy của ông lão cũng không thể thoát khỏi tội tù.
Cái hạt xoài nhỏ xíu, nhờ diệt mất nên mới có trái xoài to. Một tâm niệm khởi sanh, nó diệt mất nhưng lại kế tục một niệm khác, truyền khả năng và tính chất cho niệm đi sau. Cho chí kiếp này, kiếp kia cũng vậy. Nó không thường kiến(vì rất khác nhau mãi);nó không đoạn kiến(vì có mất đi đâu).
Và, cho chí Niết-bàn, cũng không còn người nhập Niết-bàn.
Nguồn: Minh Đức Triều Tâm Ảnh (Tỳ-khưu Giới Đức – Sīlaguṇa Bhikkhu)–Phật học tinh yếu
Share Link Download Căn bản vô minh là gì miễn phí
Bạn vừa tìm hiểu thêm tài liệu Với Một số hướng dẫn một cách rõ ràng hơn về Clip Căn bản vô minh là gì tiên tiến và phát triển nhất và Share Link Cập nhật Căn bản vô minh là gì miễn phí.
Thảo Luận vướng mắc về Căn bản vô minh là gì
Nếu sau khi đọc nội dung bài viết Căn bản vô minh là gì vẫn chưa hiểu thì hoàn toàn có thể lại Comment ở cuối bài để Admin lý giải và hướng dẫn lại nha
#Căn #bản #vô #minh #là #gì